ai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là những vấn đề không mong muốn đối với người lao động và doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình làm việc, không thể loại bỏ hoàn toàn các yếu tố nguy hiểm, có hại gây rủi ro cho người lao động. Nó tồn tại như một thách thức đối với doanh nghiệp và cả người lao động. Chính vì vậy, Nhà nước đã thành lập Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nhằm chia sẻ gánh nặng, giúp người lao động vượt qua khó khăn khi gặp rủi ro trong quá trình lao động.
THẾ NÀO LÀ TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP?
Đây là vấn đề cần được làm rõ, theo đó, tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.
Về hình thức, tai nạn lao động được xác định gồm tất cả các loại tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động. Về phạm vi, tai nạn lao động không chỉ giới hạn ở trong phạm vi của doanh nghiệp. Nếu đáp ứng được yếu tố trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động thì tai nạn đó được xác định là tai nạn lao động.
Cụ thể, tai nạn tại nơi làm việc và trong giờ làm việc, kể cả khi đang thực hiện các nhu cầu sinh hoạt cần thiết tại nơi làm việc hoặc trong giờ làm việc mà Bộ luật Lao động và nội quy của cơ sở sản xuất, kinh doanh cho phép, bao gồm nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, làm vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh; Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động hoặc người được người sử dụng lao động ủy quyền bằng văn bản trực tiếp quản lý lao động; Trên tuyến đường đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý. Về đối tượng, tai nạn lao động không chỉ được áp dụng đối với người lao động có quan hệ lao động chính thức mà còn áp dụng đối với cả những người học nghề, tập nghề, thử việc.
Tai nạn lao động gồm 3 loại: Tai nạn lao động chết người, tai nạn lao động nặng và tai nạn lao động nhẹ.
Tai nạn lao động chết người là tai nạn lao động mà người lao động bị chết thuộc một trong các trường hợp: Chết tại nơi xảy ra tai nạn; Chết trên đường đi cấp cứu hoặc trong thời gian cấp cứu; Chết trong thời gian điều trị hoặc chết do tái phát của vết thương do tai nạn lao động gây ra theo kết luận tại biên bản giám định pháp y; Người lao động được tuyên bố chết theo kết luận của Tòa án đối với trường hợp mất tích.
Tai nạn lao động nặng là tai nạn lao động làm người lao động bị ít nhất một trong những chấn thương được quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định 39/2016/NĐ-CP về quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật An toàn, vệ sinh lao động.
Tai nạn lao động nhẹ là tai nạn lao động làm người lao động bị thương nhẹ, không thuộc trường hợp hai loại tai nạn trên.
Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động đối với người lao động. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) hiện nay đã công nhận hơn trăm bệnh nghề nghiệp khác nhau liên quan đến các yếu tố hóa học, vật lý, sinh học, tư thế lao động…. Mặc dù số bệnh nghề nghiệp nhiều nhưng hiện nay ở Việt Nam thì mới chỉ có 34 bệnh nghề nghiệp được hưởng bảo hiểm xã hội (theo Thông tư số 15/2016/TT-BYT ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Bộ Y tế, quy định về bệnh nghề nghiệp được hưởng bảo hiểm xã hội).
Việc thực hiện chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp là một trong những chính sách an sinh hữu ích nhất hiện nay. Tuy nhiên, đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp không chỉ có quỹ bảo hiểm chi trả mà người sử dụng lao động cũng có trách nhiệm trong vấn đề này.
[Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp]
Việc thực hiện chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp là một trong những chính sách an sinh hữu ích nhất hiện nay. Ảnh: nld.com.vn
TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
Khi xảy ra tai nạn lao động, người sử dụng lao động phải kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho người lao động bị tai nạn lao động và phải tạm ứng chi phí sơ cứu, cấp cứu và điều trị cho người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Đồng thời phải thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Đây là vấn đề rất quan trọng nhằm giúp cho người lao động có đủ chi phí trong quá trình khám chữa bệnh khi không may bị rủi ro xảy ra.
Các chi phí này bao gồm: Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế; Trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với những trường hợp kết luận suy giảm khả năng lao động dưới 5% do người sử dụng lao động giới thiệu người lao động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y khoa; Thanh toán toàn bộ chi phí y tế đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế. Ngoài việc thanh toán các chi phí theo quy định, người sử dụng lao động cần phải trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị, phục hồi chức năng lao động.
Người lao động sẽ được người sử dụng lao động bồi thường khi người lao động bị tai nạn lao động mà không hoàn toàn do lỗi của chính người lao động này gây ra hoặc khi người lao động mắc bệnh nghề nghiệp hoặc trong trường hợp đặc thù khi người lao động thực hiện nhiệm vụ hoặc tuân theo sự điều hành của người sử dụng lao động ở ngoài phạm vi cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn bị suy giảm từ 5% đến 10% khả năng lao động thì mức bồi thường ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương, sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%; Ít nhất 30 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Người lao động được người sử dụng lao động trợ cấp một khoản tiền khi người lao động bị tai nạn lao động mà do lỗi của chính họ gây ra hoặc trong trường hợp đặc thù khi người lao động bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở theo tuyến đường và thời gian hợp lý, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn. Khoản tiền trợ cấp ít nhất bằng 0,6 tháng tiền lương nếu người lao động bị suy giảm từ 5% đến 10% khả năng lao động, sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,16 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%; Ít nhất 12 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm giới thiệu để người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định y khoa xác định mức độ suy giảm khả năng lao động, được điều trị, điều dưỡng, phục hồi chức năng lao động theo quy định pháp luật. Người sử dụng lao động phải thực hiện bồi thường, trợ cấp đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về mức suy giảm khả năng lao động hoặc kể từ ngày Đoàn điều tra tai nạn lao động công bố biên bản điều tra tai nạn lao động đối với các vụ tai nạn lao động chết người.
Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sau khi điều trị, phục hồi chức năng nếu còn tiếp tục làm việc thì người sử dụng lao động phải sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe của người lao động theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa.
Ngoài ra, người sử dụng lao động phải lập hồ sơ để người lao động được hưởng chế độ về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Cần chú ý rằng, trường hợp người sử dụng lao động đã mua bảo hiểm tai nạn cho người bị tai nạn lao động tại các đơn vị hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, thì người bị tai nạn lao động được hưởng các khoản chi trả bồi thường, trợ cấp theo hợp đồng đã ký với đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Nếu số tiền mà đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm trả cho người bị tai nạn lao động thấp hơn mức quy định như trên thì người sử dụng lao động phải trả phần còn thiếu để tổng số tiền người bị tai nạn lao động hoặc thân nhân của người bị tai nạn lao động nhận được ít nhất như quy định. Nếu người sử dụng lao động không đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, thì ngoài việc phải bồi thường, trợ cấp theo quy định, người sử dụng lao động phải trả thêm khoản tiền tương ứng với chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định. Việc chi trả có thể thực hiện một lần hoặc hàng tháng theo thỏa thuận của các bên, trường hợp không thống nhất thì thực hiện theo yêu cầu của người lao động.
Người lao động sẽ không được hưởng chế độ từ người sử dụng lao động nếu bị tai nạn thuộc một trong các nguyên nhân sau: Do mâu thuẫn của chính nạn nhân với người gây ra tai nạn mà không liên quan đến việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động; Do người lao động cố ý tự hủy hoại sức khỏe của bản thân; Do sử dụng ma túy, chất gây nghiện khác trái với quy định của pháp luật.
Bài viết: TS. Đỗ Thị Lan Chi
Khoa Bảo hộ lao động – Trường Đại học Công đoàn
Nhận xét bài viết!